Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 10/8/1920, quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông ( Hà Nội ) trong một gia đình thợ thủ công. Ông có tuổi thơ và thời trai trẻ phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề, như Quê quán: huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Lớn lên ở quê ngoại - làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội. Cuộc đời và con người: - Tô Hoài trở thành nhà văn bằng con đường tự học. Mỗi câu thơ như vẽ ra một khung cảnh rất đỗi bình dị của quê hương, đất nước, con người mà nơi ấy ân nghĩa, sự thủy chung như làm điểm nhấn nổi bật trên tất cả. Mà con người tô điểm cho thiên nhiên thêm đẹp, thêm rực rỡ hơn. Trường THPT Trịnh Hoài Mấy người đều cau lại chân mày, Ngô Thường nhỏ giọng nói: "Loại người này chính là như thế, Tô huynh đệ, chúng ta còn là bớt can thiệp vào chuyện thì tốt hơn." Tô Chuyết gật gật đầu, nói: "Đây là đương nhiên, tú tài gặp quân binh, có lý cũng nói không được. 476 người yêu thích. Phát ngẫu nhiên. Lúa Mùa Duyên Thắm. 04:02. Có thể bạn quan tâm. Tô Chấn Phong . 04:32. Ngày Em Ra Đi (Remix) Lưu Chấn Long . 04:49. Vào Đời. Quang Vinh . 04:16. Trần Hoài Phương , Guitar Vĩnh Tâm , Quyền Văn Minh . Nhạc Hòa Tấu Trữ Tình Hay Nhất Ngày đăng: 14:42 07-01-2021. Chương 903 : Thủ đoạn. Chương 903: Thủ đoạn Thời Gian sư tại cái này qua coi như có thể. Tô Vũ rất giận, đương nhiên, cũng chỉ là khí, cái gọi là có thể Chính như Thời Gian sư mà nói, khổ bên trong làm vui thôi. Tô Vũ kỳ thật vẫn là có chút Tô Mật tưởng chỉ có hai người họ đi thôi chứ. ..Nháy mắt cúi đầu, nhỏ giọng đáp một tiếng, đi lên lấy dây thừng, căn bản không hề nhìn Tô Mật. Tô Mật hoài nghi chớp mắt, đang muốn nói, Đại thẩm đã thu dọn đồ xong: "Mau lên đường thôi, nhanh một chút, còn 4IXMUcK. Quê Người Tô Hoài Ở Quê Người, đó là vùng Bưởi - ngoại ô nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Ngòi bút hiện thực của Tô Hoài xây dựng khung cảnh tiêu điều, tàn lụi của làng Hạ. Những nông dân cần cù, cam chịu, sống nhẫn nhục trong nghèo khó, ước mơ khát khao an bình chỉ như ánh đèn leo lét trong gió. Văn phong của ông gợi nhớ bầu không khí ảm đạm như những tác phẩm hiện thực của Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan. Nhưng giữa cảnh nghèo chồng chất ấy, Tô Hoài vẫn thấy ở họ nét hóm hỉnh, duyên dáng, các câu chuyện nên thơ tình tứ. "Quê Người của Tô Hoài còn cho ta thấy biết bao cái giản dị và nên thơ của người dân quê Việt Nam – những người tuy phác thực mà rất mơ màng họ vốn là tác giả những câu ca dao bất hủ. Hãy xem cái cách hẹn hò của cặp tình nhân Hời và Ngây, cách hẹn hò ý nhị của Tristan cùng Iseut. Đông Tây có lẽ gặp nhau ở chỗ này.” - Nhà nghiên cứu VŨ NGỌC PHAN Nhà văn Tô Hoài 1920-2014 tên thật là Nguyễn Sen. Sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 tại Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội. Ông tham gia cách mạng từ trước 1945 trong Hội Ái hữu Công nhân, Hội Văn hóa Cứu quốc. Ông từng làm phóng viên rồi làm Chủ nhiệm báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1957-1958 ông làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, sau đó làm Phó Tổng Thư ký trong nhiều năm. Từ 1986-1996 ông làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội. Ông viết hơn trăm tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim, chân dung, tiểu luận… Tác phẩm được nhiều thế hệ độc giả yêu thích nhất là tập truyện thiếu nhi Dế Mèn phiêu lưu ký. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội. - Nhà sách online giá tốt, tiết kiệm, giao hàng nhanh. Đầy đủ sách mới. Có cả sách hiếm, khó tìm. Đóng gói cẩn thận. Thường xuyên giảm giá. Miễn phí vận chuyển 250k. Thông tin sách Tên sách QUÊ NGƯỜI Tác giả Tô Hoài Nhà phát hành Phương Nam Nhà xuất bản NXB Hội Nhà Văn Khối lượng 220g Kích thước 13 x 21 cm Ngày phát hành 03/2007 Số trang 228 Giá bìa Thể loại Tiểu thuyết Hiện thực Thông tin ebook Nguồn Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Type+Làm ebook thanhbt Ngày hoàn thành 31/08/2016 Dự án ebook 229 thuộc Tủ sách BOOKBT​ Giới thiệu Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm tiểu thuyết “Quê người”, tiểu thuyết “Mười năm”, tiểu thuyết “Quê nhà.” Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng tây bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 1996. Tiểu thuyết Quê người viết 1941 cũng một khung cảnh ấy, những vùng Hà Nội đã bị chiếm đóng. Cảnh điêu linh và khốn cùng diễn ra, biết bao nhiêu người đã phải tha hương. Đi phu, đi làm đường, vào Nam, sang Tân Đảo và các thuộc địa Pháp ở ngoài châu Đại Dương, làm cu li đồn điền. Trong cảnh khốn đốn, phải đi “đất khách quê người”. Tiểu thuyết Quê người đã được tác giả viết trước nhất, cách đây nửa thế kỷ, từ khi nhà văn Tô Hoài mới bắt đầu cầm bút. Điều đó chứng tỏ đề tài của vấn đề đã nung nấu lâu dài trong tâm tư và tình cảm tác giả theo bước với sự phát triển của số phận cuộc sống và lịch sử. Các file đính kèm Thay bìa này đi bác thanhbt Không biết do nhà xuất bản biên tập lại hay lí do khác mà bản này có nhiều chỗ bị sửa những từ ngữ đặc sắc của tác giả. Ví dụ "Ông Nhiêu vào hạng cừ rượu trong làng". Trước đây tôi được đọc là 'dừ rượu' Theo tôi thì bản in nào ta chọn đúng bìa đó cho khỏi nhầm lẫn, nếu không có mới phải thay thế bìa bản in khác; theo như bác quang3456 nói ở trên, những bản in khác nhau lại bị biên tập, sửa đổi khác nhau một chút. Biết cái nào là đúng nhỉ? Chỉ có cách hỏi cụ Tô. Sent from Oneplus One Đi đâu hỏi bây giờ, chắc là ra Đông Tác? Đọc chuyện thì biết, Ông Nhiêu không thể gọi là cừ rượu trong làng được. Trích 1 đoạn "Ông Nhiêu vẫn uống rượu. Ông uống cạn già nửa chai hai cút rồi... Rượu đã ngấm đến cực độ, khiến ông không thể cất nổi đầu nữa. Ông chúi xuống, bò đi kềnh càng như một con cua. Ông khua hai tay, rồi khuỵu hẳn xuống. Thế là ông kêu lên rền rền “Gậy của tôi đâu?... Đánh bỏ mẹ nó đi!... Tôi có say đâu!...” Tự nhiên, ông cong cổ lên, hoác miệng ra mà nôn thốc một hồi. Cơm rượu phòi từng đống." Thế này so với Chí Phèo thì còn kém xa. anphan and 123phat like this. Thế thì chỉ xóa một chữ đi thôi, sửa lại có tí. Lỗi kỹ thuật. ˋ﹏ˊ Sent from Oneplus One Đấy chỉ là 1 ví dụ thôi, còn nhiều chữ khác nữa. Nhà văn Tô Hoài nổi tiếng về sáng tạo từ ngữ, cũng như nhà văn Nguyễn Tuân. Nếu người biên tập đọc không quen tai sẽ sửa thành các từ thông dụng, có khi cũng vẫn đúng nhưng mất đi màu sắc văn TH. Một VD khác, tôi nhớ đã đọc là bà Ba 'xang xác mồm', trong sách này thì là 'quang quác' Đang qua topic Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link hóng lại bản 1952 xem có phải "dừ rượu" không, hê hê. Bản in đó là "rừ rượu", cũng là biến âm của "dừ rượu", theo ngữ cảnh có nghĩa là "nát rượu", "nghiện rượu" chứ không phải "uống rượu giỏi". 'Dừ' chứ chứ ai lại 'rừ'. Dừ người vì rượu. Bọn mình vẫn bảo nhau thế, ở năm 2016 Sent from Oneplus One Bản in cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX do NXB Văn học liên kết với Nhà sách Minh Lâm 2014 có 500 trang nội dung nhưng lỗi thì nhiều không kể xiết, gồm cả lỗi morasse nhan nhản hầu như trang nào cũng có và lỗi nội dung khiến bạn đọc hiểu sai nội hàm ý nghĩa tác giả viết. • Phan Thanh Giản khuyên… quan tài ? Những lỗi sai morasse sơ đẳng nhất có ở tên các địa danh và nhân vật rất quen thuộc như Đà Nẵng thành Đà Năng, Võ Tánh thành Võ Tránh, Chương Mỹ Hà Đông thành Chứng Mỹ. Thậm chí, Nguyễn Huệ tức vua Quang Trung cũng sai thành Nguyên Huệ trang 386, Tôn Đản sai thành Tôn Đàn trang 184, Nùng Tồn Phúc sai thành Nùng Tồn Phú trang 186... Còn những lỗi khiến bạn đọc hiểu sai nội hàm ý nghĩa có thể kể như việc Địch Thanh là tướng nhà Tống năm 1053 đến Tân Châu để hội chư quân thì viết sai, đẩy thời gian lùi gần 500 năm sau thành năm 1503 trang 183; việc vua Louis XVI ký với giám mục Bá Đa Lộc bản Hiệp ước Versailles năm 1787 cũng sai thành năm 1887 trang 403… Đặc biệt, khi quân Pháp đánh Nam kỳ, có đoạn viết “Thấy thế không chống nổi, Phan Thanh Giản khuyên quan tài ba tỉnh nên nộp thành trì cho giặc” trang 461. Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa Quan tài, còn gọi là áo quan, là hòm bằng gỗ đựng thi thể người chết. Viết đúng phải là Phan Thanh Giản khuyên “quan lại” ba tỉnh nên nộp thành cho Pháp. • Nhà Trần “lộn tông” Cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, trong bản in năm 2016 do NXB Khoa học Xã hội liên kết với Nhà sách Anh Khoa, tuy số lỗi morasse ít hơn nhưng việc biên tập vẫn là điều đáng bàn tới vì lỗi sai vẫn nghiêm trọng, trong khi NXB Khoa học Xã hội là đơn vị xuất bản đúng chuyên ngành. Nhà Trần vốn đã bị sử sách đánh giá là loạn luân khi anh em cận huyết lấy nhau để giữ ngôi. Nay đọc sách thì thấy trang 247 viết “Trần Ích Tắc là em ruột Trần Khoán”. Sang trang sau ghi “Em Trần Khâm là Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc”. Cũng trang 248 này viết Trần Khâm phải sai người đem em ruột là An Tư công chúa để hiến cho Thoát Hoan để mong hoãn binh”. Trần Khoán là ai thì chúng tôi chưa rõ, chắc phải đợi NXB Khoa học Xã hội lý giải giúp cho. Còn Trần Khâm là tên húy của vua Trần Nhân Tông 1258 - 1308. Mà so sánh trong phả hệ tôn thất nhà Trần thì vua Trần Nhân Tông phải gọi Trần Ích Tắc bằng chú và gọi An Tư công chúa bằng cô, làm sao có chuyện hai vị đó lại là em của Trần Khâm được? Họ chỉ có thể là em của thượng hoàng Trần Thánh Tông mà thôi… Bác này cẩn thận quá. Đúng rồi, 'rừ', 'dừ' hay 'nhừ' cũng giống như nát. Người ta thường nói là 'nát rượu' nhưng cụ TH lại viết là 'rừ rượu', thế mới là văn của TH. Đào mộ Vì thấy lời tựa có phần sai so với thực tế hoàn cảnh lúc đó "..Tiểu thuyết Quê người viết 1941 cũng một khung cảnh ấy, những vùng Hà Nội đã bị chiếm đóng. Cảnh điêu linh và khốn cùng diễn ra, biết bao nhiêu người đã phải tha hương. Đi phu, đi làm đường, vào Nam, sang Tân Đảo và các thuộc địa Pháp ở ngoài châu Đại Dương, làm cu li đồn điền.." Vùng Nghĩa Đô là ngoại thành Hanoi khi đó nên ko thuộc vùng nhượng địa tức Nội Thành Hanoi, xã hội hoàn toàn thuộc phong kiến, thậm chí vận hành kiểu làng xã. Cảnh khốn khó ở đây trong tác phẩm là xã hội nói chung thời đó do phong kiến lạc hậu không liên quan gì đến việc người Pháp thực dân là mấy. Trái lại, nội thành Hà Nội người Pháp cai quản rất quy củ, văn minh hơn nhiều, tham khảo thêm hồi ký cụ Nguyễn Hiến Lê. Đi phu là do nghèo khó, làm nông không đủ sống và nhiều lý do khác, thực tế dù khổ nhưng việc làm thuê đều được người Pháp trả lương. Để hiểu rõ hơn các bạn xem phóng sự Người Việt ở Tân Đảo do trung tâm Vân Sơn thực hiện. Phóng sự có một chú nói, lúc đo tâm lý nói chung người Pháp coi họ là người cai trị nên dù làm thuê nhưng họ quản người làm rất khắt khe và tàn nhẫn, có thể so sánh với tâm lý của người nô lệ da màu ở Mỹ và chủ nô da trắng ví dụ trong phim 12 Years Slave. Lời tựa trên rất không logic khi ghép các sự kiện chả liên quan gì từ việc khốn khó của đời sống phong kiến vào việc tha hương, làm thuê, đi phu ví như sự đi xuống từng nấc thang, ko khách quan thậm chí gán ghép hệ quả vào truyện. Theo tôi để hiểu lịch sử không phải dễ. Trong văn học các sự kiện tâm lý nhân vật có thể dễ tạo sự đồng cảm ở người đọc nhưng nếu quá thiên vị sẽ mất đi cái ý nghĩa chân thực. Đôi lời nhận xét khách quan với lời tựa trên của truyện này. Đây là tác phẩm, đơn giản là, theo cụ Nguyễn Hiến Lê nhận xét là rất chân thực về đời sống người dân thôn quê Việt thời đó cả tốt xấu hỉ nộ ái ố, nhưng không bị tô quá nhiều màu đen phóng đại hơi quá so với thực tế về sự khốn khổ của dân chúng như Tắt Đèn của cụ Ngô Tất Tô hay Chí Phèo của cụ Nam Cao. Nhiều bạn đọc bị ám ảnh do việc học văn thời xã nghĩa, bị bắt phân tích kiểu văn mẫu đóng khuôn là xã hội khốn kho do phong kiến,thực dân nọ kia nên dễ bị thiên hướng gán ghép sai nội dung, kiểu như lời tựa trên. Cuối cùng, một tác phẩm rất đáng đọc để hiểu hơn đời sống của các cụ thời xưa. chumeo_di_hia thích bài này. Cảm ơn các bác, văn người ta thế nào thì nên để nguyên như vậy, không nên sửa chữa dù chỉ 1 từ, nhất là những từ nhà văn cố tình dùng câu chữ như vậy. Có chăng sữa lỗi sai chính tả thôi. Vậy em bỏ qua bản này để tìm bản chuẩn hơn vậy. Cảm ơn bác chủ thớt dành thời gian đóng gói ebook cho người yêu văn nhé. Ừ, chúc bạn may mắn lần sau nhé! chumeo_di_hia thích bài này. Cuốn này là phần 2 của cuốn quê nhà thì phải chumeo_di_hia thích bài này. Em ko rõ lắm, hì hì Là phần 2 nhưng được viết trước. Tôi thấy tập này hay nhất, có thể xếp vào loại phong tục tiểu thuyết. Còn 2 tập kia tác giả viết thêm và viết sau năm 54, phong cách lúc đó khác rồi. Chia sẻ trang này Quê Nhà Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm tiểu thuyết “Quê người”, tiểu thuyết “Mười năm”, tiểu thuyết “Quê nhà.” Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng tây bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 1996. Tiểu thuyết Quê người viết 1941 cũng một khung cảnh ấy, những vùng Hà Nội đã bị chiếm đóng. Cảnh điêu linh và khốn cùng diễn ra, biết bao nhiêu người đã phải tha hương. Đi phu, đi làm đường, vào Nam, sang Tân Đảo và các thuộc địa Pháp ở ngoài châu Đại Dương, làm cu li đồn điền. Trong cảnh khốn đốn, phải đi “đất khách quê người”. Tiểu thuyết Quê người đã được tác giả viết trước nhất, cách đây nửa thế kỷ, từ khi nhà văn Tô Hoài mới bắt đầu cầm bút. Điều đó chứng tỏ đề tài của vấn đề đã nung nấu lâu dài trong tâm tư và tình cảm tác giả theo bước với sự phát triển của số phận cuộc sống và lịch sử. Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm Quê người, Mười năm, Quê nhà. Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất định. Câu chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng Tây Bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 1996. Tiểu thuyết Quê nhà viết 1978 nói về sự việc hai lần quân Pháp tấn công chiếm Hà Nội cách nay đã hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, những nhân vật lịch sử của các trận đánh Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc, các tướng tá Pháp như Phơ răng xi Gácniê, Hăng ri Rivie không phải là các nhân vật chủ yếu. Mà ở đây tác giả đã miêu tả tình hình các phường xóm và làng quê trong thành ngoại nội mà nhân dân – các anh hùng vô danh đã dũng cảm nổi lên chống quân xâm lược như thế nào. Tiểu thuyết Quê người viết 1941 cũng một khung cảnh ấy, những vùng Hà Nội đã bị chiếm đóng. Cảnh điêu linh và khốn cùng diễn ra, biết bao nhiêu người đã phải tha hương. Đi phu, đi làm đường, vào Nam, sang Tân Đảo và các thuộc địa Pháp ở ngoài châu Đại Dương, làm cu li đồn điền. Trong cảnh khốn đốn, phải đi “đất khách quê người”. Tiểu thuyết Quê người đã được tác giả viết trước nhất, cách đây nửa thế kỷ, từ khi nhà văn Tô Hoài mới bắt đầu cầm bút. Điều đó chứng tỏ đề tài của vấn đề đã nung nấu lâu dài trong tâm tư và tình cảm tác giả theo bước với sự phát triển của số phận cuộc sống và lịch sử. Tiểu thuyết Mười năm viết 1957 cũng vẫn quang cảnh và tình hình ở vùng ấy, nhưng bước sang một giai đoạn quyết liệt nhất, mười năm 1935 – 1945. Nước Pháp đã bại trận ngay khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Phát xít Nhật can thiệp vào Đông Dương. Đất nước ta bị hai tròng áp bức và bóc lột, nạn đói vô cùng thảm khốc đã xảy ra mà mỗi con người chỉ còn có con đường một sống một chết. Trong khốn cùng ấy, lá cờ nghĩa đánh Pháp đuổi Nhật cứu nước do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo giương cao đã tung bay khắp nước, từ rừng núi xuống đồng bằng. Tiểu thuyết Mười năm ấy là thời gian mười năm toàn dân chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Đến nay, hơn năm mươi năm đã qua, để thấy được nguyên nhân sâu xa những điều tâm huyết của Tô Hoài với một vùng đất ông từng gắn bó. Trải ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ngày nay đương bước vào giai đoạn xây dựng đất nước hùng vĩ chưa bao giờ từng có, xin được in lại trọn bộ cả ba tiểu thuyết Quê nhà, Quê người và Mười năm. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

quê người tô hoài